Các sự cố khi thi công cọc khoan nhồi và biện pháp phòng ngừa, khắc phục
|
Hình minh họa thi công cọc khoan nhồi |
1. SỰ CỐ KHÔNG RÚT ĐƯỢC ĐẦU
KHOAN LÊN
- Khái quát công nghệ : Điều kiện địa chất chủ yếu
là bùn, cát pha, sét pha, sỏi sạn, mũi cọc được thiết kế ngập vào tầng đá 50
cm. Dùng công nghệ khoan ống vách để giữ thành trong suốt quá trình khoan. Ông
vách được giữ lại không rút lên.
- Diễn biến sự cố: Do một nguyên nhân nào đó
như mất điện máy phát, hỏng cẩu.v.v.. làm gián đoạn quá trình khoan cọc, cần
phải rút đầu khoan lên ngay ngay sau khi mất điện thì đầu khoan bị kẹt ở đáy lỗ
không cẩu lên được cũng không thể nhổ lên được.
- Nguyên nhân: Hiện tuợng sập vách phần đất đã khoan duới đáy ống vách
chưa kịp hạ xảy ra ngay sau khi mất điện làm nghiêng đầu khoan, đầu khoan bị
vướng vào đáy ống vách và bị toàn bộ phần đất sập xuống bao phủ. Do vậy không
thể rút đầu khoan lên được.
- Biện pháp xử lý:
Cách 1: Rút ống vách lên khoảng 20 cm sau đó mới rút đầu khoan,
sau khi rút được đầu khoan lên rồi sẽ lại hạ ngay ống vâch xuống.
Cách 2: Nếu không thể nhổ được ống vách do ống vách đã hạ sâu,
lực ma sát lớn, ta phải dùng biện pháp xói hút . Cách tiến hành như sau:
Dùng vòi xói áp lực cao xói hút phần đất đã bị sập và xói sâu xuống dưới đầu
khoan mục đích làm cho đầu khoan trôi xuống dưới theo phương thẳng đứng để khỏi
bị nghiêng vào thành vách. Sau đó mới cẩu rút đầu khoan.
Lưu ý: Trong suốt quá trình xói hút luôn giữ cho mực nước trong lỗ khoan ổn
định đầy trong ống vách để giữ ổn định thành lỗ khoan dưới đáy ống vách.
2. SỰ CỐ KHÔNG RÚT ĐƯỢC ỐNG
VÁCH LÊN TRONG PHƯƠNG PHÁP THI CÔNG CÓ ỐNG VÁCH
Nguyên nhân:
Do điều kiện đất (chủ yếu là tầng cát). Lực ma sát giữa ống chống với đất ở
xung quanh lớn hơn lực nhổ lên ( lực nhổ và lực rung) hoặc khả năng cẩu lên của
thiết bị làm lỗ không đủ. Trong tầng cát thì sự cố kẹp ống thường xảy ra, do
ảnh hưởng của nước ngầm khá lớn, ngoài ra còn do ảnh hưởng của mật độ cát với
việc cát cố kết lại dưới tác dụng của lực rung. Còn trong tầng sét, do lực dính
tương đối lớn hoặc do tồn tại đất sét nở v.v...
Ống vách hoặc thiết bị tạo lỗ nghiêng lệch nên thiết bị nhổ ống vách không phát
huy hết được năng lực.
Lưỡi nhọn ống vách bị mài mòn lên làm tăng lực ma sát giữa ống vách với tầng
đất.
Thời gian giữa hai lần lắc ống dài quá cũng làm cho khó rút ống đặc biệt là khi
ống vách đã xuyên vào tầng chịu lực.
Bê tông đổ một lượng quá lớn mới rút ống vách hoặc đổ bê tông có độ sụt quá
thấp làm tăng ma sát giữa ống vách và bê tông.
Biện pháp phòng ngừa, khắc phục:
Chọn phương pháp thi công và thiết bị thi công đảm bảo năng lực thiết bị đủ đáp
ứng nhu cầu cho công nghệ khoan cọc.
Sau khi kết thúc việc làm lỗ và trước lúc đổ bê tông phải thường xuyên rung lắc
ống, đồng thời phải thử nâng hạ ống lên một chút ( khoảng 15 cm) để xem có rút
được ống lên hay không. Trong lúc thử này không
được đổ bê tông vào.
Khi sử dụng năng lực của bản thân máy mà nhổ ống chống không lên được thì có
thể thay bằng kích dầu có năng lực lớn để kích nhổ ống lên.
Trước khi lắc ống lợi dụng van chuyển thao tác, lúc lắc với một góc độ nhỏ làm
cho lực cản giảm đi, để cho nó từ từ trở lại trạng thái bình thường rồi lại nhổ
lên, và phải đảm bảo hướng nhổ lên của máy trùng với hướng nhổ lên của ống. Nếu
ống bị nghiêng lệch thì phải sửa đổi thế máy cho chuẩn.
Nếu phát hiện ra lưỡi nhọn ống vách bị mài mòn phải kịp thời dùng phương pháp
hàn chồng để bổ xung.
3. SỰ CỐ SẬP VÁCH HỐ KHOAN
- Các nguyên nhân chủ yếu ở trạng thái tĩnh:
+ Độ dài của ống vách tầng địa chất phía trên không đủ qua các tầng địa chất
phức tạp.
+ Duy trì áp lực cột dung dịch không đủ.
+ Mực nước ngầm có áp lực tương đối cao
+ Trong tầng cuội sỏi có nước chảy hoặc không có nước, trong hố xuất hiện hiện
tượng mất dung dịch.
+Tỷ trọng và nồng độ của dung dịch không đủ.
+ Sử dụng dung dịch giữ thành không thoả đáng.
+ Do tốc độ làm lỗ nhanh quá nên chưa kịp hình thành màng dung dịch ở trong lỗ.
- Các nguyên nhân chủ yếu ở trạng thái động:
+ ống vách bị biến dạng đột ngột hoặc hình dạng không phù hợp.
+ ống vách bị đóng cong vênh, khi điều chỉnh lại làm cho đất bị bung ra.
+Dùng gầu ngoạm kiểu búa, khi đào hoặc xúc mạnh cuội sỏi dưới đáy ống vách làm
cho đất ở xung quanh bị bung ra.
+ Khi trực tiếp để bàn quay lên trên ống giữ, do phản lực chấn động hoặc quay
làm giảm lực dính giữa ống vách với tầng đất.
+ Khi hạ khung cốt thép va vào thành hố phá vỡ màng dung dịch hoặc thành hố.
+ Thời gian chờ đổ bê tông quá lâu ( qui định thông thường không quá 24 h) làm
cho dụng dịch giữ thành bị tách nước dẫn đến phần dung dịch phía trên không đạt
yêu cầu về tỷ trọng nên sập vách.
Ngoài ra còn có một nguyên nhân khá quan trọng khác là áp dụng công nghệ khoan
không phù hợp với tầng địa chất.
- Các biện pháp đề phòng sụt lở thành hố:
Theo các nguyên trên, để đề phòng sụt lở thành hố phải chú ý các việc sau:
+ Khi lắp dựng ống vách phải chú ý độ thẳng đứng của ống giữ.
+ Công tác quản lý dung dịch chặt chẽ trong phương pháp thi công phản tuần
hoàn.
+ Khi xuất hiện nước ngầm có áp, tốt nhất là nên hạ ống vách qua tầng nước
ngầm. Khi làm lỗ nếu gặp phải tầng cuội sỏi mà làm cho rò gỉ mất nhiều dung
dịch thì phải dừng lại để xem xét nên tiếp tục sử lý hay thay đổi phương án. Vì
vậy công tác điều tra khảo sát địa chất ban đầu rất quan trọng.
+ Duy trì tốc độ khoan lỗ theo qui định tránh tình trạng tốc độ làm lỗ nhanh
quá khiến màng dung dịch chưa kịp hình thành trên thành lỗ nên dễ bị sụt lở.
+ Cần phải thường xuyên kiểm tra dung dịch trong quá trình chờ đổ bê tông để có
giải pháp sử lý kịp thời tránh trường hợp dung dịch bị lắng đọng tách nước làm
sập vách.
+ Khi làm lỗ bằng guồng xoắn, để đề phòng đầu côn quay khi lên xuống làm sạt lở
thành lỗ, phải thao tác với một tốc độ lên xuống thích hợp và phải điều chỉnh
cho vừa phải thành ngoài của đầu côn quay với cạnh ngoài của dao cắt gọt cho có
cự ly phù hợp.
+ Khi thả khung cốt thép phải thực hiện cẩn
thận tránh cho cốt thép va chạm mạnh vào thành lỗ. Sau khi thả khung cốt thép
xong phải thực hiện việc dọn đất cát bị sạt lở, thuờng dùng phương pháp trộn
phun nước, sau đó dùng phương pháp không khí đây nước, bơm cát v.v... để hút
thứ bùn trộn ấy lên, lúc này phải chú ý bơm nước áp lực không đuợc quá mạnh
tránh làm cho lỗ khoan bị phá hoại nhiều hơn.
+ Khi làm lỗ bằng guồng xoắn, để đề phũng đầu cụn quay khi lờn xuống làm sạt lở
thành lỗ, phải thao tỏc với một tốc độ lờn xuống thớch hợp và phải điều chỉnh
cho vừa phải thành ngoài của đầu cụn quay với cạnh ngoài của dao cắt gọt cho cú
cự ly phự hợp.
+ Khi thả khung cốt thộp phải thực hiện cẩn
thận trỏnh cho cốt thộp va chạm mạnh vào thành lỗ. Sau khi thả khung cốt thộp
xong phải thực hiện việc dọn đất cỏt bị sạt lở, thuờng dựng phýừng phỏp trộn
phun nýớc, sau đỳ dựng phýừng phỏp khụng khớ đừy nýớc, bừm cỏt v.v... để hỳt
thứ bựn trộn ấy lờn, lỳc này phải chỳ ý bừm nýớc ỏp lực khụng đuợc quỏ mạnh
trỏnh làm cho lỗ khoan bị phỏ hoại nhiều hừn.
4. SỰ CỐ TRỒI CỐT THÉP KHI
ĐỔ BÊ TÔNG
4.1.TRƯỜNG HỢP TRỒI CỐT
THÉP DO ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH RÚT ỐNG VÁCH:
+ Nguyên nhân 1: Thành ống bị méo mó, lồi
lõm.
Cách phòng ngừa: Kiểm tra kỹ thành trong ống vách nhất là ở phần đáy. Nếu bị
biến dạng hoặc méo mó thì phải nắn sửa.
+ Nguyên nhân 2: Cự ly giữa đường kính ngoài của khung cốt thép với
thành trong của ống vách nhỏ quá, vì vậy sẽ bị kẹp cốt liệu to vào giữa khi rút
ống vách cốt thép sẽ bị kéo lên theo.
Cách phòng ngừa: Quản lý chặt chẽ cốt liệu bê tông. Cự ly giữa thành trong ống
vách và thành ngoài của cốt đai lớn đảm bảo gấp 2 lần đường kính lớn nhất của
cốt liệu thô.
+ Nguyên nhân 3: Do bản thân khung cốt thép bị cong vênh, ống vách bị
nghiêng làm cho cốt thép đè chặt vào thành ống.
Cách phòng ngừa: Phải tăng cường độ chính xác ở khâu gia công cốt thép, đề
phòng khi vận chuyển bị biến dạng và kiểm tra độ thẳng đứng của ống vách trước
khi thả lồng cốt thép.
Cách sử lý sự cố : Khi bắt đầu đổ bê tông thấy phát hiện cốt thép bị trồi lên
thì phải lập tức dừng việc đổ bê tông lại và kiên nhẫn rung lắc ống vách , di
động lên xuống hoặc quay theo một chiều để cẳt đứt sự vướng mắc giữa khung cốt
thép và ống vách. Trong khi đang đổ bê tông, hoặc khi rút ống lên mà đồng thời
cố thép và bê tông cùng lên theo thì đây là một sự cố rất nghiêm trọng : hoặc
thân cọc với tầng đất không được liên kết chặt, hoặc là xuất hiện khoảng hổng.
Cho nên trường hợp này không được rút tiếp ống lên trước khi gia cố tăng cường
nền đất đã bị lún xuống.
4.2.TRƯỜNG HỢP CỐT THÉP BỊ
TRỒI LÊN DO LỰC ĐẨY ĐỘNG CỦA BÊ TÔNG (ĐÂY LÀ LÀ NGUYÊN NHÂN NHÂN CHÍNH GÂY RA
SỰ CỐ TRỒI CỐ THÉP)
Lực đẩy động bê tông xuất hiện ở đáy lỗ khoan
khi bê tông rơi từ miệng ống xuống (thế năng chuyển thành động năng ). Chiều
cao rơi bê tông càng lớn, tốc độ đổ bê tông càng nhanh thì lực đẩy động càng
lớn. Cốt thép sẽ không bị trồi nếu lực đẩy động nhỏ hơn trọng lượng lồng thép.
Vì vậy có thể giảm thiểu sự trồi cốt thép nếu hạn chế tối đa chiều cao rơi bê
tông và tốc độ đổ bê tông. Chiều cao này có thể không chế căn cứ vào trọng
lượng lồng thép.
Mặt khác có thể coi bê tông rơi xuống đáy lỗ khoan là trên nền đàn hồi, vì vậy
việc giảm thiểu tốc độ đổ bê tông sẽ làm giảm thiểu phản lực đẩy ở đáy lỗ
khoan.
5. SỰ CỐ TỤT CỐT THÉP CHỦ
TRONG CÔNG NGHỆ KHOAN XOAY VÁCH (VÍ DỤ CẦU ĐUỐNG)
Nguyên nhân :
Khi xoay ống vách thì cốt thép chủ bị xoay theo do tỳ vào ống ách qua các con
kê và các cốt liệu lớn. Nhất là khi toàn bộ khung cốt thép tỳ lên ống vách
thông qua các con kê do không dùng hệ khung cốt thép treo tạm thời khi đổ bê
tông (như ở trụ 7 cầu Đuống ) thì ảnh hưởng dao động của cốt thép khi xoay ống
vách càng lớn. Khi đó dưới tác động của việc xoay ống vách và trọng lượng của
khung cốt thép thì toàn bộ khung cốt thép phần trên sẽ bị tụt xuống.
Biện pháp xử lý và phòng ngừa:
Khung cốt thép dùng mối nối buộc phải buộc thật chắc chắn và cẩn thận các mối
nối giữa cốt thép chủ với cốt chủ, giữa cốt chủ với cốt đai và các cốt thép với
nhau.
Để hạn chế ảnh hưởng tác động của ống vách khi xoay vách tốt nhất là nên dùng
các cốt thép tạm nối với cốt chủ nhô lên khỏi ống vách và treo toàn bộ lồng cốt
thép trong lúc đổ bê tông. Cách này sẽ hạn chế tối đa lực tỳ của lồng thép lên
ống vách. Nếu việc treo này vướng cho công tác đổ bê tông thì có thể không treo
nhưng phải thường xuyên theo dõi cao độ cốt thép phụ tạm hoặc khi xoay ống vách
phải treo lên.
6. HƯ HỎNG VỀ BÊ TÔNG CỌC
6.1. Công đoạn khoan tạo lỗ:
Kỹ thuật, thiết bị khoan hoặc loại cọc ấn
định kém thích hợp với đất nền.
Sự mất dung dịch khoan bất ngờ(khi gặp hang caster ) hoặc sự trồi lên đột ngột
của đất bị sụt lở vào lỗ khoan.
Sự quản lý kém khi khoan tạo lỗ do sử dụng loại dung dịch có thành phần không
thích hợp với đất nền.
Sự nghiêng lệch bấp bênh hoặc hệ thống khoan tạo lỗ của máy khi gặp đá mò côi
hoặc lớp đá nghiêng.
Làm sạch lỗ khoan không đầy đủ, đáy lỗ khoan có một lớp cặn dày ít nhiều sinh
ra một sự tiếp xúc không tốt tại mũi cọc và làm nhiễm bẩn bê tông.
6.2. Công đoạn đổ bê tông cọc:
Thiết bị đổ bê tông không thích hợp.
Sai sót trong việ nối ống đổ bê tông, dứt đoạn đổ bê tông, do sự rút ống dẫn bê
tông quá nhanh.
Sự cấp liệu không đều dẫn đến lượng bê tông chiếm chỗ ban đầu không đủ do đổ
nhanh (chẳng hạn giữa ống dẫn và đai bọc).
Sự dụng bê tông có thành phần không thích hợp, khong đủ tính dẻo và dễ phân
tầng.
Sự lưu thông mạch nước ngầm làm trôi cục bộ bê tông tươi.
Sự xắp xếp lại nền đất làm suy giảm ma sát thành bên hoặc khả năng chịu lực của
mũi cọc.
Thời hạn giãn cách kéo dài giữa khâu khoan tạo lỗ và đổ bê tông cọc gây ra sự
sụt lở đất ở vách lỗ khoan và lắng đọng chất cặn ở đáy lỗ khoan, đó là sự cố
thông thường xảy ra ở công trường thi công một số lượng lớn cọc khoan nhồi.
Xử lý các khuyết tật bê tông cọc chất lượng
kém
Phương pháp bơm vữa này cho phép:
Tái tạo lại bê tông có khuyết tật mà đặc tính của bê tông này là thiếu chất gắn
kết.
Gia cố khối lượng đất nền đã bị giảm khả năng chịu lực và bị xáo trộn bằng cách
thấm nhập vữa.
Lấp các đường nứt hoặc lỗ rỗng của đất nền.
Phải xác định thành phần vữa, định lượng vữa sử dụng, áp lực bơm và khối lượng
cần phun.
6.2.1. Mục đích và yêu cầu xử lý :
- Thay thế lớp mùn khoan và dung dịch sét phần mũi cọc khoan nhồi bằng một lớp
vữa xi măng cát mác 300 tương đương với cường độ bê tông thân cọc.
- Không làm ảnh hưởng tới cấu trúc địa tầng của lớp cuội sỏi dưới mũi cọc.
6.2.2. Công nghệ xử lý
a/Khoan tạo lỗ :
+ Đối với cọc các lỗ khoan kiểm tra có thông nước với nhau thì sử dụng 3 lỗ
khoan kiểm tra làm lỗ để bơm và thoát vữa, (vị trí lỗ khoan là các ống nhựa
đường kính đường kính 100mm và 2 ống nhựa đường kính 60mm phía đối diện đã đặt
sẵn trong cọc ). Hai ống nhựa còn lại để sử dụng làm lỗ kiểm tra kết quả bơm
vữa sử lý.
+ Đối với các cọc không có hiện tượng thông nước với nhau trong khi khoan kiểm
tra và thổi rửa thì phải khoan thủng 2 ống nhựa còn lại để bơm vữa vào mũi cọc.
+ Nếu ống nhựa đường kính 60 không thẳng, không thể tận dụng làm lỗ khoan xử lý
được, thi phải khoan thêm một lỗ đường kính 93 mm dọc suốt thân cọc, vị trí lỗ
khoan này nên cách lồng thép >25 cm, nhưng tác dụng của lỗ khoan này hạn chế
hơn các lỗ xung quanh cọc khi bơm vữa xử lý.
b/Bơm nước xói rửa
- Dùng máy khoan để nâng, hạ ống thép đường kính 33- 44mm dài bằng chiều dài
cọc để xói rửa.
- Dùng vòi nước có áp từ 5 đến 10 át, lưu lượng 10 –15 m3/giờ để xói rửa lớp
mùn ở phần mũi cọc .
- áp lực bơm phù hợp phải xác định tại hiện trường nhằm đảm bảo 2 yêu cầu
+ Xói sạch lớp mùn xốp ở mũi cọc
+ Không làm ảnh hưởng tới tầng cuội sỏi ở phía dưới
- Thời gian xói rửa tại mỗi cọc tuỳ thuộc vào lượng mùn ở mũi cọc, khi thấy
nước đùn lên ở miệng lỗ khoan đã sạch mùn và chỉ còn lẫn cát thì dừng bơm rửa
để không ảnh hưởng tới tầng cuội sỏi phía dưới.
c/ Bơm vữa xi măng cát mác 300
+ Việc bơm vữa xi măng cát tuân thủ theo công nghệ thi công vữa dâng tại vị trí
các ống nhựa đường kính 100 mm. áp lực bơm vữa từ 5 – 6 át, để tạo áp lực phải
bố trí nút cao su ở lỗ khoan đặt ống bơm vữa.
+ Đối với các lỗ khoan không có hiện tượng mất nước trong khi khoan thì bơm xử
lý làm nhiều đợt, mỗi đợt cách nhau 1 ngày để tránh hiện tượng mất vữa vào tầng
cuội sỏi.
+ Khi thấy vữa dâng lên tràn qua mặt ống nhựa thì cho dừng bơm và xem như chân
cọc và ống nhựa đã được lấp đầy vữa.
7. SỰ CỐ GẶP HANG CASTER
KHI KHOAN
Dấu hiệu thường thấy khi mũi khoan gặp hang
caster là độ lún cần khoan tăng đột ngột, cao độ dung dịch trong lỗ khoan có
thể bị tụt xuống khi gặp hang rỗng hoặc dâng lên khi trong hang có nước có áp
hoặc bùn nhão.
Việc gặp hang caster có nhiều bùn nhão như ở cầu Bợ khiến phải sử lý mất rất
nhiều thời gian, trong đó việc sử dụng ống vách phụ qua hang caster cũng là một
giải pháp đang được áp dụng khá hiệu quả. Trong trường hợp phát hiện trước có
hang caster thì sử dụng thiết bị khoan xoay ống vách là phương pháp hiệu quả
nhất.
Việc sử dụng ống vách phụ qua hang caster kết hợp với ống vách mở rộng bên
ngoài được tiến hành như sau:
VÍ DỤ VỚI CỌC F1500:
Bước 1: Sử dụng ống vách mở rộng F1800 dày 14mm rung hạ bằng
búa rung BP170 đến cao độ cho phép có thể rút được ống vách lên tuỳ theo năng
lực thiết bị hiện có. Có thể kết hợp đào đất hoặc xói hút trong ống vách để
giảm thiểu lực ma sát thành cọc.
Bước 2: Khoan trong lòng ống vách mở rộng bàng máy khoan BAUER sau đó doa lỗ F1650.
Vách thép phụ F1600 được ép hạ qua hang
sau đó tiếp tục khoan F1500 và đổ bê tông bình
thường.
Ông vách phụ được giữ lại trong đất còn ống vách mở rộng có thể được rút lên
sau khi khoan xong.